Khoa học kỹ thuật – Doisongphapluat.net https://doisongphapluat.net Thu, 21 Aug 2025 23:21:01 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/news/2025/08/doisongphapluat.svg Khoa học kỹ thuật – Doisongphapluat.net https://doisongphapluat.net 32 32 Nông dân sáng tạo: Làm giàu từ sản xuất OCOP và ứng dụng khoa học kỹ thuật https://doisongphapluat.net/nong-dan-sang-tao-lam-giau-tu-san-xuat-ocop-va-ung-dung-khoa-hoc-ky-thuat/ Thu, 21 Aug 2025 23:20:59 +0000 https://doisongphapluat.net/nong-dan-sang-tao-lam-giau-tu-san-xuat-ocop-va-ung-dung-khoa-hoc-ky-thuat/

Ở xã Trung Lý, cấp ủy và chính quyền địa phương đã đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp nhằm xây dựng và nhân rộng các mô hình kinh tế, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, giúp người dân đạt hiệu quả kinh tế cao. Anh Thào A Thái, dân tộc Mông ở bản Tà Cóm, là một trong những tấm gương điển hình tiêu biểu trong phát triển kinh tế hộ gia đình với nghề chăn nuôi trâu bò sinh sản và thương phẩm.

Người dân xã Thường Xuân áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất dưa Kim Hoàng hậu trong nhà màng, nhà lưới mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Người dân xã Thường Xuân áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất dưa Kim Hoàng hậu trong nhà màng, nhà lưới mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Trước đây, anh Thái là hội viên nông dân thuần túy, gắn bó với nương lúa, đồi ngó, quanh năm ‘bán mặt cho đất, bán lưng cho trời’. Tuy nhiên, từ năm 2020, anh Thái đã mạnh dạn áp dụng khoa học kỹ thuật để chuyển hướng sang chăn nuôi, mở ra bước ngoặt quan trọng trong hành trình vươn lên làm giàu chính đáng. Với con mắt nhanh nhạy và tư duy làm kinh tế, anh Thào A Thái nhận ra tiềm năng từ chăn nuôi đại gia súc, bởi có thể tận dụng được nguồn thức ăn sẵn có và lực lượng lao động trong gia đình.

Cũng trong thời điểm này, địa phương có chính sách khuyến khích chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, nên anh Thái quyết định đầu tư ‘lớn’, mua 3 cặp trâu bò về nuôi. Những ngày đầu, anh cùng 4 thành viên là lực lượng chính trong gia đình tất bật từ sáng sớm đến tối, chăm sóc đàn vật nuôi như chăm ‘con nhỏ’. Với tính kiên trì, nhẫn nại, anh Thái chăm chỉ học hỏi kỹ thuật, tích lũy kinh nghiệm trong quá trình chăn nuôi. Dần dà, đàn trâu bò ngày một sinh sôi. Đến nay, gia đình đã nhân đàn lên hơn 50 con bò và 20 con trâu, là hộ gia đình có số lượng gia súc nhiều nhất bản Tà Cóm.

Để phát triển đàn trâu bò bền vững, anh Thái lựa chọn phương pháp nuôi sinh sản kết hợp với nuôi thương phẩm, căn cứ vào nhu cầu của thị trường để xuất bán theo từng thời điểm phù hợp. Ngoài chăn nuôi trâu bò, Thào A Thái còn triển khai mô hình trồng rừng, khoanh nuôi trên 15ha rừng sản xuất với các loại cây lấy gỗ như xoan, lát… Từ mô hình kinh tế tổng hợp của mình, sau khi trừ chi phí, mỗi năm gia đình anh Thái thu lãi khoảng 300 triệu đồng.

Không chỉ là gương điển hình trong phát triển kinh tế gia đình, với vai trò người có uy tín, anh Thào A Thái đã tuyên truyền, hướng dẫn, giúp đỡ cho bà con dân bản cùng phát triển kinh tế; hướng dẫn, hỗ trợ kiến thức, kinh nghiệm sản xuất cho 10 gia đình trong bản, giúp đỡ 6 hộ nghèo phát triển sản xuất, vươn lên ổn định cuộc sống…

Thời gian qua, xã Trung Lý đã triển khai nhiều mô hình kinh tế nông nghiệp hiệu quả, góp phần tạo việc làm, giảm nghèo bền vững cho người dân địa phương. Điển hình như mô hình trồng quế trên diện tích 20ha với 20 hộ tham gia; mô hình điểm trồng ‘Cây sắn năng suất cao’; mô hình tổ hợp tác chăn nuôi vịt; nuôi gà thương phẩm; mô hình trồng dược liệu, phát triển cây ăn quả, cây đặc sản… Thông qua các mô hình giúp cho tỷ lệ hộ nghèo tại xã Trung Lý giảm dần hàng năm. Nếu như năm 2023 tỷ lệ hộ nghèo của xã chiếm 51,94%, thì đến năm 2024 giảm còn 39,71%.

Tại các xã Xuân Bình, Thượng Ninh, Thanh Phong cũng tập trung tuyên truyền, hướng dẫn Nhân dân áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nhằm thay đổi tập quán canh tác, chuyển đổi các mô hình sản xuất, nhằm khai thác tiềm năng, lợi thế về đất đai ở địa phương. Điển hình như mô hình sản xuất lúa có năng suất, chất lượng cao TBR279, Bắc Thịnh, TBR225, TBR45, Nhị Ưu 986, GS9, GS55… góp phần bảo đảm an ninh lương thực ở địa phương.

Bên cạnh đó, các xã cũng chú trọng chuyển đổi diện tích trồng lúa kém năng suất sang trồng các loại cây có hiệu quả kinh tế cao hơn, được liên kết, bao tiêu sản phẩm, như cam, chanh leo, xoài keo, ổi… áp dụng công nghệ cắt, ghép để cải tạo, sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vật…

Trong lĩnh vực chăn nuôi, đã chuyển giao khoa học kỹ thuật và đưa vào nuôi các loại con giống có năng suất, chất lượng cao, như gà Lương Phượng, gà lai chọi, gà mía, gà Lạc Thủy, khôi phục vịt bầu Thanh Quân, vịt Cổ Lũng; thực hiện cải tạo đàn bò bằng thụ tinh nhân tạo, sử dụng tinh bò đực giống Zebu, thụ tinh nhân tạo với bò cái vàng địa phương, giống mới thuần ngoại Landrace…

Các mô hình này góp phần thay đổi phương thức chăn nuôi nhỏ lẻ sang chăn nuôi tập trung theo hướng sản xuất hàng hóa. Qua khảo sát cho thấy, còn rất nhiều mô hình kinh tế nông nghiệp được áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, qua đó góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế – xã hội, giảm nghèo bền vững ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số xứ Thanh.

Theo kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo định kỳ năm 2024, đến nay tỷ lệ hộ nghèo khu vực miền núi của tỉnh giảm 4,43% (từ 11,04% xuống còn 6,61%); tỷ lệ hộ cận nghèo giảm 2,66% (từ 14,01% xuống còn 11,35%). Với những kết quả đạt được đã nhân lên niềm tin của đồng bào dân tộc khu vực miền núi đối với các mô hình kinh tế nông nghiệp hiệu quả, qua đó sẽ được áp dụng, nhân rộng trong thời gian tới.

]]>
Nâng cao thu nhập từ măng grâce vào kỹ thuật tiên tiến ở Lào Cai https://doisongphapluat.net/nang-cao-thu-nhap-tu-mang-grace-vao-ky-thuat-tien-tien-o-lao-cai/ Mon, 04 Aug 2025 07:16:10 +0000 https://doisongphapluat.net/nang-cao-thu-nhap-tu-mang-grace-vao-ky-thuat-tien-tien-o-lao-cai/

Ở tỉnh Lào Cai, nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số đã biến tiềm năng núi rừng thành hàng hóa, áp dụng khoa học kỹ thuật vào xây dựng thương hiệu sản phẩm, góp phần phát triển kinh tế xanh, bền vững và tạo việc làm cho lao động tại địa phương.

Từ những rừng măng bạt ngàn, những ngườ phụ nữ vùng cao đang nỗ lực vươn lên, đón nhận những cơ hội phát triển mới.
Từ những rừng măng bạt ngàn, những ngườ phụ nữ vùng cao đang nỗ lực vươn lên, đón nhận những cơ hội phát triển mới.

Trước đây, cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số tại các xã như Văn Bàn, Chiềng Ken, Minh Lương, Nậm Chày, Nậm Xé gắn bó mật thiết với những rừng măng. Măng không chỉ giúp họ nuôi sống gia đình mà còn gìn giữ một phần văn hóa bản địa. Tuy nhiên, cuộc sống gắn liền với măng cũng đồng nghĩa với sự bấp bênh: sản lượng không ổn định, giá cả bị thao túng bởi thương lái và thiếu cơ hội vươn ra thị trường lớn.

Phát triển kinh tế hàng hóa từ rừng núi: Hướng đi bền vững cho phụ nữ dân tộc thiểu số- Ảnh 3.
Phát triển kinh tế hàng hóa từ rừng núi: Hướng đi bền vững cho phụ nữ dân tộc thiểu số- Ảnh 3.

Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hóa, nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số tại địa phương đã tham gia vào các dự án phát triển ngành măng, đưa sản phẩm từng bước chinh phục thị trường. Chị Triệu Thị Lai, người dân tộc Dao ở xã Nậm Xé, tỉnh Lào Cai, là một minh chứng sinh động cho hành trình thay đổi đó.

Hợp tác xã Dần Thàng tạo việc làm ổn định cho khoảng 15–20 người dân và thu nhập cho hàng trăm hộ liên kết
Hợp tác xã Dần Thàng tạo việc làm ổn định cho khoảng 15–20 người dân và thu nhập cho hàng trăm hộ liên kết

Suốt nhiều năm, cuộc sống của chị gắn với những nhịp thở nơi rừng măng. Với 3-4 hecta rừng, gia đình chị dựa vào những mùa thu hoạch măng để mang lại phần lớn thu nhập hằng năm. Tuy nhiên, mọi thứ bắt đầu thay đổi từ năm 2020, khi chị tham gia Dự án Thúc đẩy Bình đẳng Giới thông qua Nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất Nông nghiệp và Phát triển du lịch.

Người phụ nữ dân tộc Dao gắn bó mật thiết với những rừng măng.
Người phụ nữ dân tộc Dao gắn bó mật thiết với những rừng măng.

Thông qua dự án, chị được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, cải tạo đất, giúp tối ưu hóa việc trồng măng, tăng năng suất và chất lượng măng. Đặc biệt, chị đã tìm được đầu ra mới ngoài địa phương. Việc bán măng ra các tỉnh lân cận đã giúp giá măng tăng đáng kể, từ 25.000 đồng/kg lên 35.000 đồng/kg măng đã bóc vỏ.

Một công đoạn chế biến măng của bà con Hợp tác xã Măng Dần Thàng
Một công đoạn chế biến măng của bà con Hợp tác xã Măng Dần Thàng

Nhờ đó, thu nhập từ măng của gia đình chị tăng từ 20 triệu đồng một vụ lên 30 triệu đồng một vụ cho diện tích trồng 3 hecta. Năm 2024, chị Triệu Thị Lai thực hiện mục tiêu dài hơi hơn, từ một người nông dân trồng măng, chị quyết tâm gây dựng một mô hình kinh tế tập thể quy mô nhỏ, do chính những người phụ nữ dân tộc thiểu số làm chủ.

Được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, măng của hợp tác xã Nậm Xé có năng suất cao hơn và chất lượng tốt hơn
Được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, măng của hợp tác xã Nậm Xé có năng suất cao hơn và chất lượng tốt hơn

Nhận được sự đồng hành của chính quyền địa phương, của các cấp Hội phụ nữ, Công ty Tư vấn giải pháp Nông nghiệp và Du lịch CRED, vợ chồng chị Lai cùng 9 hộ gia đình khác trong xã đã thành lập Hợp tác xã Măng Nậm Xé. Thông qua hợp tác xã, các hộ dân có cơ hội được đào tạo chuyên sâu về kỹ thuật canh tác, bóc vỏ và thu hoạch măng, đồng thời ký kết hợp đồng lâu dài với một công ty thu mua.

Đây là những bước tiến quan trọng giúp các thành viên trong hợp tác xã, từng bước thoát khỏi sự lệ thuộc vào thương lái. Sự thành công và chuyển biến tích cực trong gia đình chị Lai và các hộ lân cận đã tạo động lực mạnh mẽ cho những người phụ nữ khác ở các xã lân cận, thúc đẩy họ chủ động thành lập các hợp tác xã riêng, nắm bắt cơ hội từ giá trị đang ngày càng tăng lên của ngành măng.

Tại xã Nậm Chày, Hợp tác xã Măng Dần Thàng do chị Hà Thị Thu Hương làm Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc cũng đang tạo dựng cơ hội kinh doanh và việc làm ổn định, bền vững, giúp bà con vùng núi khó khăn vươn lên thoát nghèo.

Hợp tác xã Măng Dần Thàng được thành lập vào tháng 8/2024 với tổng số 15 thành viên, 100% đều là chị em phụ nữ dân tộc thiểu số tại địa phương. Hợp tác xã hiện nay đang liên kết sản xuất măng với 4 tổ hợp tác, bao gồm 161 hộ dân tại xã Dần Thàng.

Năm 2024, Hợp tác xã đã ký kết thỏa thuận hợp tác 10 năm với Công ty Kim Bôi về việc thu mua sản phẩm măng đạt chất lượng do Hợp tác xã sản xuất. Được tham gia các chương trình tập huấn, chuyển giao công nghệ chế biến và bảo quản măng để hình thành chuỗi chế biến khép kín, tiêu thụ ổn định, hợp tác xã Dần Thàng đã đầu tư 400 triệu đồng xây dựng nhà máy 160m², có thể xử lý tới 1.000 tấn măng tươi mỗi năm.

Chặng đường hình thành, phát triển hợp tác xã của chị Triệu Thị Lai, chị Hà Thị Thu Hương cho thấy sự cần thiết của sự liên kết, hợp tác đồng hành giữa nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp và nhà nước, trong quá trình đưa sản phẩm của núi rừng tiếp cận với thị trường trong nước.

Tạo việc làm và mở ra cơ hội phát triển kinh tế cho phụ nữ dân tộc thiểu số là một trong những mục tiêu quan trọng của các dự án phát triển ngành măng. Không chỉ hướng tới lợi nhuận, mô hình hợp tác xã măng còn mang giá trị xã hội lớn.

Từ chỗ lao động đơn lẻ, manh mún, người dân, nhất là phụ nữ dân tộc thiểu số được tổ chức sản xuất bài bản, có thu nhập ổn định, có cơ hội học hỏi và thể hiện vai trò lãnh đạo. Nhờ những thay đổi tích cực trong ngành măng cùng với quyết tâm không ngừng nghỉ của những người phụ nữ như chị Triệu Thị Lai và chị Hà Thị Thu Hương, những ngọn măng trong rừng núi Lào Cai không chỉ đơn thuần là kế sinh nhai mà còn góp phần tạo nên cho sự phát triển bền vững cho cộng đồng.

Tại các vùng miền, người tiêu dùng ngày càng ưa chuộng đặc sản vùng cao với tiêu chuẩn an toàn, truy xuất nguồn gốc và giá trị văn hóa đi kèm. Những sản phẩm măng rừng với vị ngọt thanh, độ giòn đặc trưng và được chế biến theo quy trình sạch của Lào Cai đang dần khẳng định vị thế không chỉ tại các chợ truyền thống, mà có mặt tại các hội chợ, trên quầy kệ của các siêu thị, và trên các nền tảng bán hàng thương mại điện tử.

Tiếp nối hành trình phát triển kinh tế hàng hóa vùng dân tộc thiểu số và miền núi, cần có chính sách dài hạn từ Nhà nước, từ Bộ Công Thương và các Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức trong việc hỗ trợ hạ tầng sản xuất, vốn tín dụng ưu đãi, chuyển giao khoa học công nghệ, xúc tiến thương mại và bảo hộ thương hiệu. Quan trọng hơn cả là niềm tin vào năng lực của những người phụ nữ vùng cao, trao cho họ cơ hội để góp sức phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

]]>